Thiên nhiên là một danh từ quen thuộc được chúng ta sử dụng nhiều trong các hoạt động học tập và lao động hằng ngày. Tuy nhiên, mấy người trong chúng ta có thể hiểu “Thiên nhiên là gì?” ,”Thiên nhiên bao gồm những gì?”, “Các dạng tài nguyên thiên nhiên?” và “Vai trò của thiên nhiên?”. Nếu bạn còn chưa biết điều đó thì hãy cùng chúng tôi đi tìm hiểu từng vấn đề một trong bài viết dưới đây nhé.
Mục lục:
Thiên nhiên là gì, thiên nhiên bao gồm những gì?
Theo định nghĩa của bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì thiên nhiên hay còn được gọi là tự nhiên, thế giới vật chất vũ trụ…tiếng Anh được gọi là nature. Nó bao gồm tất cả các dạng vật chất và năng lượng tồn tại từ cấp độ bé là hạt nguyên tử đến cấp độ to lớn như ngôi sao, thiên hà, ngân hà…
Đấy là định nghĩ cách hiểu từ “thiên nhiên” theo ngôn ngữ khoa học, còn nếu nói theo cách hiểu đơn giản, thông dụng thì thiên nhiên bao gồm tất cả những gì bao quanh con người mà không do bàn tay con người tạo nên. Thiên nhiên bao gồm không khí, khí hậu, nguồn nước, nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn động thực vật, các yếu tố địa lý, địa hình…
Vai trò của thiên nhiên?
Để hiểu một cách đầy đủ về vai trò của thiên nhiên nhất, chúng ta hãy cùng xem thiên nhiên tác động như thế nào đến môi trường tự nhiên và đời sống sinh hoạt sản xuất của con người.
Vai trò của thiên nhiên đối với cuộc sống tự nhiên
Có thể nói, thiên nhiên là cái nôi sản sinh ra sự sống, cũng là nơi kết thúc của sự sống. Ví dụ, khi một vùng nào đó phải chịu thiên tai, bão lụt thì hàng trăm, hàng ngàn sự sống bị hủy diệt, môi trường sống bị tàn phá nặng nề, đó chính là kết thúc của sự sống.
Tuy nhiên, điều đó không phải là chấm hết, khi cơn bão qua đi, từ những thân cây đổ sẽ mọc nên những mầm cây mới. Nguồn phù sa chảy về sẽ cung cấp dưỡng chất cho cỏ cây phát triển, cây cỏ phát triển sẽ thu hút các loài động vật ăn cỏ, động vật gặm nhấm di chuyển về. Số lượng động vật ăn cỏ đông thì các loại động vật ăn thịt cũng kéo nhau di chuyển về, tạo nên một sự cân bằng trong sinh thái.
Đây chính là vai trò đầu tiên của thiên nhiên, đó chính là tạo ra sự sống và giúp cân bằng hệ sinh thái.
Vai trò của thiên nhiên đối với cuộc sống của con người
Thiên nhiên là nơi cung cấp các nguồn tài nguyên để phục vụ cho cuộc sống và sản xuất sinh hoạt của con người. Đơn giản là chúng ta hít thở không khí từ tự nhiên, uống nước từ tự nhiên, khai thác các loại khoáng sản, lâm sản, thổ sản, hải sản… để phục vụ cho nhu cầu của mình.
Thiên nhiên quyết định đến các đặc điểm hình thái và hình thức quần cư, sinh sống của con người. Ví dụ như chủng người sống ở khu vực Đông Á, nơi quanh năm có khí hậu nóng ẩm, đồng bằng nhiều, nguồn nước nhiều thì họ sẽ định cư dọc các con sống lớn, nơi phát triển được nghề lúa nước.
Ngược lại, đối với người da trắng sống ở khu vực châu Âu, nơi khí hậu ôn đới mát mẻ, nhiệt độ trung bình năm thấp thì họ phải trồng các loại cây thực phẩm là lúa mì, để thích ứng được với khí hậu nơi đây.
Thiên nhiên cũng cung cấp cho chúng ta lượng tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản lớn như nguồn nước, nguồn khoáng sản, nguồn hải sản, lâm sản… Nơi nào càng tập trung nhiều nguồn tài nguyên thì mật độ dân cư sinh sống càng đông đúc.
Tuy nhiên, các hoạt động sinh sống và khai thác của con người ở một số vùng hiện nay đang phá hủy thiên nhiên và môi trường tự nhiên, do đó cần chung tay để giải quyết nhanh chóng vấn đề này.
Các dạng tài nguyên thiên nhiên
Về định nghĩa một cách đơn giản, tài nguyên thiên nhiên là những thứ có sẵn trong tự nhiên, mà con người khai thác, sử dụng chúng để phục vụ các nhu cầu sống của mình.
Phân loại tài nguyên thiên thiên dựa theo bản chất
Các nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể được phân loại ra làm 6 loại chính là:
- Tài nguyên đất: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp, đất để sản xuất công nghiệp(như làm gạch, làm gốm…)
- Tài nguyên rừng: gồm động vật, thực vật, lâm sản, địa điểm du lịch…
- Tài nguyên nước ngọt: nước uống, nước sản xuất, thủy sản nước ngọt, các loài thực vật thủy sinh, năng lượng thủy điện…
- Tài nguyên gió: sức gió, vận tải…
- Tài nguyên biển: hải sản, muối, thực vật thủy sinh, địa điểm du lịch…
- Tài nguyên khoáng sản: than đá, quặng, đá vôi, dầu khí…
Phân loại tài nguyên thiên nhiên dựa theo khả năng tái tạo
Nếu dựa theo khả năng tái tạo, tài nguyên thiên nhiên được chia thành 3 loại chính là:
Tài nguyên tái tạo được
Là các loại tài nguyên mà tự bản thân nó có thể duy trì, bổ sung thêm được như nước ngọt, đất đai, động thực vật… Tuy nhiên, với việc khai thác và sử dụng quá mức như ngày nay thì nhiều loại tài nguyên thiên nhiên không có khả năng hồi phục được nữa.
Tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được
Đây là những nguồn tài nguyên được biến đổi qua hàng triệu năm dưới tác động của thiên nhiên. Các loại tài nhiên này một khi đã sử dụng hết thì không còn khả năng tái tạo được nữa ví dụ như khoáng sản, các loại than đá, quặng đồng, chì, sắt, nhôm, đá vôi…
Tài nguyên năng lượng vĩnh cửu
Là nguồn tài nguyên từ tự nhiên không bị cạn kiệt như ánh sáng mặt trời, gió, thủy triều, sóng biển… Ở nhiều quốc gia phát triển trên thế giới, họ đã dần dần thay thế dần cách hoạt động sản xuất sử dụng tài nguyên năng lượng vĩnh cửu thay vì tài nguyên hóa thạch.
Thực trạng nguồn tài nguyên ở nước ta hiện nay
Cũng giống với nhiều quốc gia trên thế giới, nguồn tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam đang dần bị thu hẹp và cạn kiệt dần. Thủ phạm đứng sau các vấn đề này lại chính là con người.
Theo các số liệu thống kê thì diện tích rừng đang bị thu hẹp từng ngày, từng giờ do các hoạt động khai thác trái phép. Diện tích rừng thu hẹp khiến cho động thực vật mất đi môi trường sống, đẩy chúng dần đến nguy cơ bị tuyệt chủng trong tự nhiên.
Nguồn nước bị ô nhiễm khiến nhu cầu nước sạch cũng càng trở lên cấp bách. Khoáng sản bị khai thác cạn kiệt, ô nhiễm không khí, ô nhiễm đất đai, sông ngòi ao hồ và tính trạng hoang mạc hóa ngày càng tăng cao.
Từ chính điều này đòi hỏi chúng ta phải có ý thức trong việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên hơn nữa, không chỉ tốt cho cuộc sống của mình mà còn cho các thế hệ con cháu sau này nữa.
Một số vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam
Vườn quốc gia U Minh Thượng
Nằm cách thành phố Rạch Giá khoảng 65 km về phía Tây Nam và được nâng cấp từ khu bảo tồn thiên nhiên của U Minh Thượng lên thành Vườn quốc gia U Minh Thượng được thành lập vào ngày 14 tháng 1 năm 2002 với khoảng 21.122 ha thuộc diện tích tại các xã như An Minh, Minh Thuận Bắc (huyện U Minh Thượng – tỉnh Kiên Giang), bao gồm 8.053 ha vùng lõi (trong đó 7838 ha là khu bảo vệ nghiêm ngặt, 200 ha là khu vực kết hợp phục hồi sinh thái và bảo tồn di tích lịch sử, 15 ha là phân khu hành chính) và 13.069 ha vùng đệm.
U Minh Thượng sở hữu đa dạng sinh học nhất về các loài hoa ở đồng bằng sông Cửu Long, bên cạnh sự phát triển của cây tràm, còn có hơn 254 loài thuộc 84 họ, với nhiều loài đặc hữu như phong lan đất, bèo nhọn, cây dương xỉ… Theo dữ liệu khảo sát từ kiểm kê rừng năm 1995, Khu bảo tồn sinh học U Minh Thượng sở hữu tới 8.053 ha rừng nguyên sinh, trong đó có 3.000 ha rừng nguyên sinh được hình thành từ khoảng 6.000 năm trước với độ dày từ 0,3 – 1,5 m
Hệ động vật cũng rất phong phú với 32 loài thuộc 10 họ, 7 chi trong đó có 7 loài dơi, 10 loài được liệt kê trong Sách đỏ của Việt Nam và thế giới như rái cá mũi lông, mèo cá, cầy vòi hương, sóc Finlayson, tê tê Java (Sunda); 188 loài chim thuộc 39 họ và 12 chi chiếm 16,6% so với 828 loài được ghi nhận ở Việt Nam, trong đó có 12 loài có giá trị bảo tồn, 8 loài đang bị đe dọa trên toàn cầu như bồ nông chân xám, chim già sói, cò quắm đầu đen, chim thợ dệt, diều cá đầu xám, đại bàng đen; 54 loài bò sát lưỡng cư, trong đó có 8 loài được liệt kê trong Sách đỏ Việt Nam như trăn gấm, rắn cạp nong, rắn hổ mang, rắn hổ chuột, tắc kè,..; 34 loài cá, trong đó, hai loài được gọi là: cá trê trắng và cá thác lác được liệt kê trong Sách đỏ Việt Nam, các loài tiêu biểu khác như cá lóc, cá lóc khổng lồ, cá rô, cá thòi lòi,…
Vườn quốc gia Thượng U Minh là một trong ba khu vực được bảo tồn của Khu bảo tồn sinh quyển thế giới ở tỉnh Kiên Giang, với nhiều cấp độ mà hầu như không có khu vực bảo tồn nào của vùng đất ngập nước ở Đông Nam Á có thể sánh được. U Minh Thượng cũng từng là một khu vực căn cứ cách mạng ổn định trải qua hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ ở khu vực Tây Nam, Đảng ủy miền Nam, Văn phòng Trung ương Tây Nam, Ủy ban hành chính và kháng chiến miền Nam, lực lượng chính của Quân khu 9, căn cứ của tỉnh Kiên Giang với 31 di tích lịch sử và văn hóa, trở thành một khu di tích lịch sử đặc biệt của tỉnh Kiên Giang
Từ khu dự trữ sinh quyển của thế giới cho đến vườn di sản Asean và Ramsar
Vào ngày 27 tháng 10 năm 2006, trong phiên họp thứ 19 được tổ chức tại Paris, UNESCO đã công nhận Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang bao gồm ranh giới biển và đảo là Khu dự trữ sinh quyển thế giới. Đây không chỉ là khu dự trữ sinh quyển thứ 5 ở Việt Nam được UNESCO công nhận cho đến hiện tại mà còn là khu dự trữ lớn thứ hai trong tổng số 8 Khu dự trữ sinh quyển ở Việt Nam, sau Khu dự trữ sinh quyển ở phía Tây tỉnh Nghệ An.
Khu vực dành riêng cho sinh quyển của tỉnh Kiên Giang bao gồm lãnh thổ của một số huyện như Phú Quốc, Kiến Hải, Kiên Lương và U Minh Thượng (thành lập ngày 10-5-2007) với diện tích hơn 1,1 triệu ha, bao gồm ba các khu vực cốt lõi thuộc về Vườn quốc gia U Minh Thượng, Vườn quốc gia Phú Quốc và Rừng phòng hộ ven biển ở Kiên Lương – Kiên Hải, tập hợp sự phong phú, đa dạng và đặc biệt về cả cảnh quan và hệ sinh thái, từ rừng ngập mặn Cajuput, rừng trên núi đá – núi đá vôi đến hệ sinh thái biển với cỏ biển và các loài cá cúi có nguy cơ tuyệt chủng được coi là loài điển hình
Theo ông Hương H. Lê – Giám đốc ban quản lý Vườn quốc gia U Minh Thượng, kết quả khảo sát khoa học trong thời gian gần đây cho thấy hệ sinh thái rừng Cajuput trên vùng đất than bùn trong công viên có tầm quan trọng đặc biệt, cung cấp cả sự nuôi dưỡng và nơi trú ẩn cho nhiều loài động vật hoang dã, khan hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng. Chúng đóng vai trò thiết yếu trong việc cân bằng sinh thái, điều hòa dòng chảy, duy trì mức khí hậu toàn cầu, chất lượng nước và cả quá trình hình thành đất đá
Trong những năm gần đây, tỉnh Kiên Giang đã nỗ lực rất nhiều trong việc thực hiện quá trình bảo tồn và phục hồi tài nguyên thiên nhiên ở vùng đất than bùn, đảm bảo sự tự nhiên, hoang dã và toàn vẹn của hệ thống sinh thái, sự đa dạng và giá trị nổi bật của dân số ở Vườn quốc gia Thượng U Minh, đạt được. tất cả các tiêu chí để trở thành một công viên di sản ASEAN. Năm 2012, Công viên quốc gia Thượng U Minh đã được công nhận là Công viên di sản ASEAN đầu tiên trên vùng đất than bùn của khu vực Đông Nam Á.
Trong suốt thời gian qua, chính quyền Kiên Giang đã nỗ lực nhiều trong cách tiếp cận dự trữ và khôi phục tài nguyên thiên nhiên, giữ trạng thái tự nhiên, hoang dã của hệ sinh thái; sự đa dạng và cân bằng trong rừng. Nhờ cố gắng đáp ứng các yêu cầu của ASEAN, vào năm 2012, Thượng U Minh đã được trao danh hiệu là vườn di sản ASEAN cho loại bùn than độc đáo.
Với những thành tựu và thành công trong công tác bảo tồn và cải thiện các giá trị “xanh” của vườn quốc gia U Minh Thượng đã đạt 5 trong tổng số 9 tiêu chí của Công ước Ramsar – một cam kết quốc tế được thực hiện để bảo tồn, sử dụng rừng ngập mặn một cách hiệu quả nhất với mục đích ngăn chặn cuộc xâm lấn vào các khu vực rừng ngập mặn cũng như sự mất mát của chúng ở hiện tại và cả trong tương lai. Vào tháng 8 năm 2015, Ban Thư ký Công ước Ramsar đã công nhận Vườn quốc gia Thượng U Minh và Khu bảo tồn đầm lầy Láng Sen (tỉnh Long An) là Địa điểm Ramsar thứ 6 và thứ 7 của Việt Nam, và thứ 2.226 và 2.227 trên thế giới
U Minh Thượng là địa điểm thu hút du khách
Là vùng đất của môi trường sinh thái đặc biệt với nhiều di tích khảo cổ, di tích lịch sử, cũng như được mô tả bởi nhiều nhà văn lớn của miền Nam như Sơn Nam, Đoàn Giây trong các tác phẩm thú vị mang đậm nét mộc mạc, sau đó các nhà làm phim cũng chọn nơi này. là bối cảnh cho các bộ phim như Bên cạnh sông Trẹm,… không có gì lạ khiến cho Vườn quốc gia U Minh Thượng lại trở thành một điểm đến ưa thích của du khách và các nhà nghiên cứu.
Điểm đến đầu tiên mà du khách có thể ghé thăm là một gò đất xanh tươi và nhiều cây cối, nơi có một đàn dơi quạ bay lơ lửng trên ngọn cây Cajuput cao vô cùng, có một số loài dơi quạ lớn (Pteropus vampyrus Linnaeus) đang bị đe dọa tuyệt chủng. Rời khỏi đàn dơi, tách khỏi kênh và du khách sẽ ngạc nhiên với một mặt nước mênh mông được bao phủ bởi dương xỉ nước mềm. Đây là bãi biển dành cho nhiều loài chim, du khách có thể ngắm hoặc chụp ảnh chim khá dễ dàng vì chúng rất thân thiện với con người.
Trên đường trở về bến tàu, du khách sẽ bắt gặp hồ Hoa Mai – một đầm lầy được tuôn ra dưới dạng một bông hoa với năm cánh hoa, bề mặt của nó được bao phủ bởi dương xỉ xinh đẹp như tấm thảm trải dài, và nó cũng là trung tâm du lịch của Vườn quốc gia U Minh Thượng. Du khách có thể thư giãn và giải trí bằng cách đạp thuyền thiên nga trên hồ, mang cần câu đi vòng quanh hồ để trải nghiệm như một ngư dân thực sự, hoặc thuê một chiếc thuyền để chèo dọc theo kênh rạch đầy hoa lily , xem xét một vị trí tuyệt vời để thả xuống thu hút
Nằm bên cạnh hồ Hoa Mai, những ngôi nhà trên khu nhà sàn dành cho ẩm thực là một điểm đến cực kỳ thú vị, nơi du khách có thể thưởng thức nhiều món ăn đặc sản mang hương vị mộc mạc nhưng đậm đà của U Minh
Hiện tại ở vườn quốc gia U Minh Thượng đã có nhiều nơi để cho du khách dừng chân – khách có thể chọn ở lại qua đêm tại nhà nghỉ ở làng Công Su (xã An Minh Bắc – huyện U Minh Thượng) hoặc trong một nhà nghỉ khá lãng mạn ở trung tâm Rừng tràm ở Hương Trâm tour du lịch vườn
Vườn quốc gia Hoàng Liên
Trước năm 1996 đến năm 2002, vườn quốc gia Hoàng Liên có tên là khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên-Sa Pa. Đến ngày 12 tháng 7 năm 2002, khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên-Sa Pa được chuyển đổi thành vườn quốc gia Hoàng Liên theo quyết định số 90/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Hiệp hội bảo vệ thiên nhiên thế giới (IUCN) đã quyết định chọn vườn quốc gia Hoàng Liên là một địa điểm bảo tồn sự đa dạng của các loài thực vật, trong dự án chương trình bảo vệ các loài thực vật. Quỹ môi trường toàn cầu, một tổ chức giải quyết các vấn đề có liên quan đến môi trường toàn cầu đã xếp hạng A cho vườn quốc gia Hoàng Liên. Đến năm 2006, nơi đây được công nhận là vườn di sản ASEAN.
Đặc điểm địa lý
Vườn quốc gia Hoàng Liên nằm có vị trí nằm trọn trọng các xã San Sả Hồ, Lao Chải, Tả Van, Bản Hồ thuộc huyện Sa Pa, các xã Mường Khoa, Thân Thuộc huyện Than Uyên và 2 xã thuộc huyện Phong Thổ tỉnh Lai Châu. Phía Tây Bắc của vườn quốc gia tiếp giáp với dãy núi Hoàng Liên, diện tích rơi vào khoảngg 29.845 ha. Nơi đây có đặc trưng bởi hệ sinh thái rừng á nhiệt đời núi cao, có nhiều loại động thực vật quý hiếm, trong đó tồn tại nhiều loài động thực vật đặc hữu.
Đặc điểm sinh thái
Do nằm ở vị trí cao, có nhiệt độ khí hậu khá ôn hòa, nhiệt độ trung bình năm không vượt quá 20 độ, nên thiên nhiên đã ưu đãi cho nơi đây một hệ sinh thái động thực vật rất phong phú.
Đa dạng sinh thái về thực vật
Theo ước tính của các nhà khoa học, ở vườn quốc gia Hoàng Liên tồn tại hơn 2.024 loài thực vật khác nhau, thuộc hơn 200 họ cây. Trong số đó, sách đỏ Việt Nam ghi nhận 133 loài với 16 loài thuộc nhóm có nguy cơ bị tuyệt chủng trên thế giới như bách xanh, thiết sam, thông tre, thông đỏ, đinh tùng, dẻ tùng…
Với phân loại mức độ quý hiếm, 133 loài thực vật này được phân loại theo mức độ:
- Cấp E có 29 loài
- Cấp T có 28 loài
- Cấp R có 40 loài
- Cấp V có 27 loài
- Cấp K có 09 loài
Đặc biệt có 16 loài thuộc cấp KK chưa được xếp hạng tại Việt Nam.
Tại vườn quốc gia Hoàng Liên còn tìm thấy nhiều loài thực vật được sử dụng làm dược liệu như thiên niên kiện, đương quy, thục địa, đỗ trọng, hoàng liên chân chim, đỗ quyên, kim giao, thảo quả…, nấm cổ linh chi và 3 loại cây đặc biệt quý hiếm là bách xanh còn khoảng 11 cây, thông đỏ còn 3 cây và vân sam Hoàng Liên còn một cây. Hiện Quỹ quốc tế và bảo vệ thiên nhiên và chương trình Đông Dương đang tìm biện pháp nhân giống 3 loại cây trên để tránh nguy cơ bị tuyệt chủng.
Đa dạng sinh thái về động vật
Theo các con số đã được thông kê thì trong vườn quốc gia Hoàng Liên tồn tại một số lượng trên 555 loài động vật có xương sống sống trên cạn khác nhau, 89 loài côn trùng và 304 loài bướm khác nhau. Cụ thể:
Trong 555 loài động vật có:
- 63 loài thú
- 346 loài chim
- 63 loài bò sát
- 50 loài lưỡng cư
Trong số loài động vật có những loài động vật đang trong có nguy cơ bị tuyệt chủng cao. Như các loài linh trưởng có vượn đen, hồng hoàng, cheo cheo, vooc bạc má, lưỡng cư có ếch gai vô cùng quý hiếm và bò sát thì có loài rùa lá. Rất nhiều loại rùa, rắn và kì đà ở đây cũng bị săn bắn và khai thác có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Đặc điểm du lịch
Thị trấn Sa Pa nằm trọn trong vườn quốc gia Hoàng Liên, với khí hậu ôn đới mát mẻ và nhiều cảnh đẹp đã trở thành tâm điểm du lịch của miền Bắc. Đến với Sa Pa và vườn quốc gia Hoàng Liên bạn không thể bỏ lỡ được các cảnh đẹp nổi tiếng và thiên nhiên hùng vĩ sau đây:
- Đỉnh Phan xi păng, với độ cao 3.143 m, được mệnh danh là nóc nhà của Đông Dương.
- Đèo Ô Quy Hồ nằm giáp ranh giữa 2 tỉnh Lào Cai và Lai Châu, đây là một kì quan của thiên nhiên với núi non cao chót vót trùng trùng, điệp điệp, mây trắng dưới chân lượn lờ, cho cảm giác như là nơi tiên cảnh, chính vì thế mà nơi đây còn có tên là Cổng trời. Đèo ô quy hồ còn gắn liền với sự tính về tình yêu đẹp nhưng bất hạnh của nàng tiên nữ thứ 7 con của trời và người con trai cả của thần núi.
- Cốc San, nơi có hệ thống thác nước hùng vĩ và nhiều hang động nối liền nhau.
- Thác Bạc, chiêm ngưỡng sự hùng vĩ của thiên nhiên cùng trang trại nuôi cá hồi nước lạnh duy nhất tại miền Bắc Việt Nam.
Ngoài các địa điểm thiên nhiên trên còn rất nhiều địa điểm du lịch nhân tạo mà bạn không thể bỏ qua khi đến với SaPa như bản Cát Cát, thung lũng Hoa Hồng, thung lũng Mường Hoa, nhà thờ đá, bản Tả Phìn, Tả van…
Tuy nhiên, có một vấn nạn là để phát triển du lịch và các đặc sản miền núi, người dân tại nơi đây đang chặt phá rừng rất nhiều mà không quan tâm đến việc trồng rừng hay bảo tồn nhiên nhiên.
Bảo tồn vườn quốc gia Hoàng Liên
Do hoạt động khai thác du lịch, khai thác lâm thổ sản địa phương nên diện tích rừng của vườn quốc gia đang bị tàn phá nghiêm trọng. Theo thống kê của ủy ban nhân dân huyện SaPa cho biết, diện tích rừng nguyên sinh đang bị giảm xuống một cách chóng mặt với ước tính còn khoảng 30%. Tốc độ suy giảm rừng nhanh đang đe dọa đến sự tồn tại và phát triển của một số loài động thực vật quý hiếm cần được bảo tồn.
Vấn đề khách du lịch hạ trại, đốt lửa, chặt cây, tỉa cành, và xả rác bừa bãi, khiến vườn quốc gia dần biến thành một bãi rác khổng lồ. Để bảo vệ và phát triển rừng, ban quản lý vườn quốc gia Hoàng Liên đã kí cam kết với các hộ dân trong việc bảo vệ rừng và thú rừng. Hoạt động này được thực hiện từ năm 2003 cho tới nay và số diện tích rừng cũng như số hộ dân tham gia ngày càng tăng cao.
Vườn quốc gia Mũi Cà Mau
Vườn quốc gia mũi Cà Mau được phát triển vào năm 2003, trong đó diện tích tổng tự nhiên của vườn là gần 42000 hecta. Vườn quốc gia nằm trên địa bàn giao giữa 2 vùng huyện Nam Căn và huyện Ngọc Hiển. Vườn được phát triển và thành lập theo quyết định của chính phủ số 142/2003/QĐ – TTG được phê duyệt và thông qua vào ngày 14 tháng 7 năm 2003 dựa trên việc nâng cấp lại khu bảo tồn thiên nhiên Đất Mũi, vốn đã được phê duyệt từ năm 1986.
Vào ngày 26 tháng 5 năm 2009, vườn quốc gia mũi Cà Mau đã được công nhận là khu dự trữ sinh quyển của thế giới do UNESCO công bố. Hơn nữa, vườn quốc gia mũi Cà Mau còn được công nhận là khu Ramsar thứ 5 của Việt Nam và đứng thứ 2088 trên thế giới theo công ước Ramsar về bảo tồn đa dạng sinh học trên thế giới.
Vị trí địa lý của vườn quốc gia mũi Cà Mau
Vườn quốc gia mũi Cà Mau nằm trên vị trí địa lý vô cùng thuận lợi. Giáp với 3 mặt biển, giao nhau giữa vùng biển phía tây và phía đông, kèm theo đó là chịu ảnh hưởng của cả 2 dòng thủy triều đông và tây. Cứ mỗi năm là khu vực bồi đắp của vườn lại lấn ra biển được thêm vài chục mét. Từ đó tạo điều kiện cho hàng trăm loài động vật có cơ hội được phát triển tại đây.
Tổng diện tích đất của vườn quốc gia mũi Cà Mau là vào khoảng 41,862 hecta, trong đó:
- Có khoảng 15,262 hecta là diện tích vùng đất liền.
- Còn lại 26,600 hecta là diện tích vùng ven biển tiếp xúc với đất liền.
Thống kê về đa dạng sinh học của Vườn quốc gia mũi Cà Mau
Hiện nay, theo như thống kê thì vườn quốc gia mũi Cà Mau có số lượng động thực vật sinh sống như sau:
- Có khoảng 28 cho đến 32 loài cây ngập mặn đang sinh sống.
- Có khoảng 26 loài thú, 93 loài chim, 43 loài động vật bò sát, 139 loài cá khác nhau, với 9 loài lưỡng cư, 49 loài sinh vật phù du, và còn nhiều loài nước mà đã được công nhận và thống kê trong sách đỏ của Việt Nam và cả trên thế giới.
- Hàng năm hệ động thực vật của vườn quốc gia mũi Cà Mau lại càng thêm phong phú. Bởi vì do hệ thống sống và kênh rạch chằng chịt ở bên trong vườn quốc gia đã giúp mang phù sa bồi đắp đất và mở rộng diện tích cho vườn.
Với việc đa dạng sinh học trong vườn quốc gia mũi Cà Mau như vậy mà nơi đây đã trở thành điểm đến du lịch của rất nhiều du khách trong và ngoài nước suốt những năm vừa qua. Khi bạn tìm đến với vườn quốc gia mũi Cà Mau, bạn sẽ được trải nghiệm các hình thức thăm quan, nghiên cứu, trải nghiệm hoạt động cùng với người dân sinh sống tại đây. Như là học cách chèo thuyền, bắt tôm, bắt cá, đặt bẫy,… Vào hàng tối, du khách còn được thưởng thức ca nhạc tới từ những ca sĩ đờn ca tài tử nổi tiếng, vừa mang tính gần gũi thiên nhiên, vừa dân dã mà lại quen thuộc.
Chức năng hoạt động của Vườn quốc gia mũi Cà Mau
Khi nói tới vườn quốc gia mũi Cà Mau, không thể không nhắc tới các chức năng hoạt động chính của vườn, bao gồm các chức năng:
- Bảo vệ tuyệt đối sự đa dạng sinh học của các loài động thực vật đang sinh sống tại nơi đây. Bao gồm các loài cây ngập mặn, các loài động vật cư trú, cung cấp thức ăn và các chất dinh dưỡng cho các loài thủy sản,….
- Vườn quốc gia mũi Cà Mau giúp bảo tồn các mẫu sinh thái mang chuẩn có tầm quan trọng quốc gia và cả trên thế giới suốt hàng thế kỷ. Việc bảo tồn phải dựa trên những cơ sở khoa học đã được chứng nhận, các giải pháp về kinh tế xã hội để giúp bảo vệ hệ sinh thái tại đây vẫn đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ.
- Hệ thống rừng ngập mặn tại vườn quốc gia mũi Cà Mau còn là hệ thống rừng phòng hộ giúp ngăn ngừa nguy cơ lũ lụt và sạt lở đất. Hệ thống rừng ngập mặn còn giúp việc bồi đắp đất trở nên dễ dàng hơn, tạo điều kiện phát triển cho người dân sinh sống tại đây và còn bảo vệ nơi sinh sống và cư trú của các loài động thực vật khác.
- Giúp nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của rừng và các hệ sinh thái đang sinh sống tại đây. Đồng thời nắm được các phương pháp và cách thức sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên này.
- Giúp bảo vệ và củng cố thêm năng lực quốc phòng và bảo vệ tình hình an ninh trật tự và chính trị văn hóa tại nơi cực nam của tổ quốc.
- Cuối cùng, vườn quốc gia mũi Cà Mau giúp phục vụ cho những hoạt động du lịch của người dân trong nước và quốc tế. Phát triển các mô hình nhằm bảo tồn đa dạng sinh học cũng như giữ vững được giá trị của vùng sinh thái ngập nước. Từ đó giúp đời sống của người dân được cải thiện tốt hơn.
Mục đích của các khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam
Các khu bảo tồn thiên nhiên là những nơi được bảo vệ nghiêm ngặt bởi pháp luật và chỉ được sử dụng để phục vụ mục đích nghiên cứu khoa học, đào tác các chuyên gia quan trắc môi trường. Ngoài ra, nhiệm vụ chính của chúng là bảo vệ các các quần thể, hệ sinh thái được ổn định không bị biến đổi, nhiễu loạn. Có thể tóm tắt được những mục đích chính của các khu bảo tồn ở Việt Nam đó là:
- Bảo vệ các khu vực hoang dã
- Giữ gìn sự đa dạng về nguồn gen
- Phục vụ công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo các chuyên gia
- Kết hợp sử dụng để giáo dục, du lịch, giải trí
- Bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và văn hóa
- Duy trì nguồn tài nguyên từ các hệ sinh thái tự nhiên
Yêu cầu gì để trở thành khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam
Để có thể trở thành khu bảo tồn thiên nhiên thì cần phải được các cơ sở chức năng xem xét và quyết định dựa vào các tiêu chí sau đây:
- Đây là vùng đất tự nhiên có nguồn dự trữ tài nguyên thiên nhiên cao và có giá trị về đa dạng sinh học.
- Được đánh giá cao về giá trị khoa học, văn hóa, phục vụ cho việc nghiên cứu, giáo dục và du lịch
- Động, thực vật là những loài đặc hữu hoặc những vùng đất là nơi trú ẩn, sinh sống của các loại động vật quý hiếm
- Có diện tích rộng lớn để có thể chứa một hoặc nhiều hệ sinh thái và tỷ lệ còn nguyên vẹn lên tới trên 70%
Các khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam được phân loại như thế nào
Vào năm 1994 thì IUCN đã phân hoại khu bảo tồn thiên nhiên theo các dạng như sau và được áp dụng với tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam.
- Khu bảo vệ hoang dã: Có tác dụng nghiên cứu khoa học và bảo vệ vùng đất hoang dã
- Khu dự trữ thiên nhiên nghiêm ngặt: Được sử dụng chủ yếu phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học
- Vùng đất hoang dã: Bảo đảm được sự nguyên vẹn cho vùng đất chưa chịu sự tác động của con người
- Vườn quốc gia: Bảo vệ hệ sinh thái phục vụ cho việc nghiên cứu, giáo dục và du lịch
- Khu bảo tồn thắng cảnh tự nhiên: Được thành lập để bảo tồn các cảnh quan độc đáo, có giá trị ở nước ta.
- Khu bảo tồn sinh cảnh: Bảo tồn hệ sinh thái bằng cách thực hiện các sự can thiệp tích cực
- Khu bảo tồn cảnh quan đất liền và biển: Được thành lập nhằm bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, phục vụ cho công việc du lịch và giải trí
- Khu bảo tồn kết hợp việc sử dụng tài nguyên bền vững: Có nhiệm vụ quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, điều chỉnh việc sử dụng đạt hiệu quả tốt nhất.
Các khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam
Theo thống kê thì hiện tại các khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam có tới 168 khu rừng đặc dụng bao gồm:
- 33 vườn quốc gia
- 59 khu vực dự trữ thiên nhiên
- 13 khu bảo tồn loài
- 9 khu dự trữ sinh quyển
- 54 khu bảo vệ cảnh quan
Vườn quốc gia Cúc Phương được biết đến là khu bảo tồn thiên nhiên đầu tiên ở nước ta và được thành lập vào năm 1962, tiếp sau đó là đến vườn quốc gia Cát Tiên, Côn Đảo…với mục đích được thành lập là bảo vệ đa dạng sinh học, đảm bảo tính nguyên vẹn của môi trường cũng như phục vụ cho công việc nghiên cứu, giáo dục và du lịch.
Năm 2011, Việt nam được đánh giá là quốc gia có hệ đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới với hơn 49.000 sinh vật bao gồm 7.500 chủng/loài vi sinh vật; 20.000 loài thực vật sống trên cạn và dưới nước; 10.500 loại động vật sống trên cạn và hơn 11.000 sinh vật biển… Và nhờ vào các khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam mà các loại động thực vật này đang được bảo vệ một cách tốt nhất
Diện tích dành cho các khu bảo tồn ở nước ta hiện nay là khoảng 5-6%. Tuy nhiên, theo khuyến nghị của tổ chức IUCN thì Việt Nam cần phải dành 10% lãnh thổ để phục vụ cho mục đích bảo tồn.Đề xuất này đang gặp phải rất nhiều những luồng ý kiến trái chiều vì nhiều người cho rằng với nền kinh tế còn nghèo như Việt Nam thì nên dành nhiều diện tích để thực hiện các công tác phát triển kinh tế thì tốt hơn.
Công tác quản lý tại các khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam
Thời gian gần đây khi bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học, nguồn tài nguyên thiên nhiên thì Nhà nước đã bắt đầu đầu tư kinh phí nhiều hơn cho việc thiết lập hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam.
Nhiều ban, ngành được thành lập phục vụ cho công tác tuần tra, kiểm soát, cùng với đó các cơ quan chức năng cũng đẩy mạnh công việc canh gác, tuyên truyền người dân địa phương có ý thức hơn trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên tại các khu bảo tồn.
Tuy nhiên, công tác quản lý vẫn đang gặp rất nhiều những khó khăn cũng như thách thức về nguồn nhân lực, kinh phí, hệ thống các cấp quản lý chưa được đồng bộ thống nhất… Và một thực trạng đáng buồn hiện nay đó là hệ sinh thái trong các khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam đang ngày càng bị suy thoái, khiến chất lượng đa dạng sinh học bị ảnh hưởng, các nguồn gen quý bị thất thoát.
Bảo vệ môi trường và cảnh quan thiên nhiên đang là một trong những công việc vô cùng cấp bách hiện nay, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của đất nước.
Các khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam đang ngày càng gia tăng về số lượng, tuy nhiên hệ sinh thái trong các khu bảo tồn này đang ngày càng bị suy giảm, chính vì thế mỗi cá nhân cần phải có ý thức và trách nhiệm của mình trong việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.
Y Sĩ Phạm Thị Ngọc Ngân tốt nghiệp loại giỏi trường Trung Cấp Y Tế Bắc Giang năm 2013 là một người am hiểu về các bệnh dạ dày, thận hiện tại đang là tác giả, chịu trách nhiệm nội dung các bài viết liên quan tới bệnh dạ dày và thận trên trang cuusaola.vn