Bò biển (Dugong) là một loài bò biển được tìm thấy trên khắp các vùng nước ven biển ấm áp của Ấn Độ Dương và phía tây Thái Bình Dương. Nó là thành viên duy nhất trong họ Dugongidae. Bò biển Dugong có thể khá lớn, đạt chiều dài hơn 4 m và nặng hơn một tấn.
Mục lục:
Bò biển (Dugong)
Bò biển (Dugong) là một loài động vật to lớn, màu nâu xám với cái đuôi xẹp giống như một con cá voi, không có vây lưng, mái chèo như chân chèo và hình dạng đầu đặc biệt. Mõm và miệng rộng bằng phẳng được đặt xuống để dễ dàng ăn cỏ dọc theo đáy biển. Mắt và tai nhỏ phản ánh sự thiếu phụ thuộc vào các giác quan này.
Đặc điểm của bò biển
Bò biển dugong là động vật biển có vú lớn.
- Đuôi của chúng phân biệt chúng với bờm, đuôi có hình mái chèo.
- Vây bò biển giống với cá heo, nhưng không giống như cá heo, bò biển thiếu vây lưng. Con cái có các tuyến vú dưới vây mà từ đó bê con của chúng bú.
- Bò biển trưởng thành nặng từ 230 đến 400 kg và có thể dài từ 2,4 đến 4 m.
- Da dày của chúng có màu nâu xám, và màu sắc của nó có thể thay đổi khi tảo phát triển trên đó.
- Ngà có mặt trong tất cả các loài bò biển, nhưng chúng thường chỉ nhìn thấy qua da ở những con đực trưởng thành, có ngà rất nổi bật và ở con cái già. Không có sự khác biệt về thể chất bên ngoài khác giữa hai giới, vì chúng là đơn hình.
- Tai của chúng không có nắp hoặc thùy nhưng dù sao cũng rất nhạy cảm. Bò biển Dugong bị nghi ngờ có độ thính giác cao để bù cho thị lực kém.
- Mồm của chúng khá lớn, tròn và kết thúc trong một khe hở. Khe hở này là một đôi môi vạm vỡ treo trên miệng quay xuống và hỗ trợ bò biển dugong trong việc tìm kiếm cỏ biển. Dugong có một hàm nhô xuống, phù hợp với các răng cửa mở rộng. Lông cảm giác bao phủ môi trên của chúng hỗ trợ trong việc định vị thực phẩm. Lông cũng che phủ cơ thể của bò biển.
Bò biển Steller
Loài bò biển khác được biết đến trong họ Dugongidae là bò biển Steller (Hydrodamalis gigas), bị săn đuổi đến tuyệt chủng vào năm 1767, chỉ 36 năm sau khi phát hiện ra chúng. Chúng có ngoại hình và màu sắc tương tự như bò biển dugong nhưng lớn hơn đáng kể, với chiều dài cơ thể từ 7 đến 10 m và trọng lượng từ 4.500 đến 5.900 kg.
Phân bố và môi trường sống của bò biển Dugong
Môi trường sống
Bò biển dugong thường sống ở vùng nước nông, ở độ sâu khoảng 10 m, mặc dù chúng thỉnh thoảng lặn xuống độ sâu 39 m để kiếm ăn. Những khu vực nông này thường nằm trong các vịnh được bảo vệ, các kênh ngập mặn rộng và trong các khu vực có mái che của các đảo nội địa. Các thảm cỏ biển bao gồm cỏ biển phanerogamous, nguồn dinh dưỡng chính của chúng, trùng với các môi trường sống tối ưu này. Tuy nhiên, bò biển dugong cũng được thấy ở vùng nước sâu hơn, nơi thềm lục địa rộng, hay vùng tương đối nông. Dugong sử dụng môi trường sống khác nhau cho các hoạt động khác nhau.
Phân bố
Bò biển Dugong được tìm thấy trên một loạt các vùng nước ven biển và nội địa của khu vực phía tây Ấn Độ – Thái Bình Dương. Ở Úc, chúng xuất hiện từ vịnh Moreton ở miền nam Queensland trên khắp miền bắc Australia đến Vịnh Shark ở phía bắc Tây Úc.
Thức ăn của bò biển là gì?
Bò biển dugong giống như tất cả các con bò biển khác là động vật ăn cỏ. Nó chủ yếu gặm cỏ trên biển và do đó dành phần lớn thời gian của nó trên các thảm cỏ biển . Không giống như các loài động vật có liên quan, bò biển dugong không bao giờ xâm nhập vào vùng nước ngọt và do đó là động vật có vú độc nhất ở biển là động vật ăn cỏ. Giống như ở hầu hết các loài động vật ăn cỏ, bộ não của dugong rất nhỏ so với kích thước cơ thể của nó, có khả năng vì nó không phải phát triển các chiến lược săn mồi phức tạp để bắt con mồi.
Vòng đời của một con bò biển dugong
Bò biển Dugong sống lâu nhất đạt 73 năm tuổi. Chúng có ít động vật săn mồi tự nhiên, mặc dù các động vật như cá sấu, cá voi sát thủ và cá mập gây ra mối đe dọa cho bò biển con. Một số lượng lớn các bệnh nhiễm trùng và bệnh ký sinh trùng ảnh hưởng đến bò biển dugong. Các mầm bệnh được phát hiện bao gồm giun sán , cryptosporidium , các loại nhiễm khuẩn khác nhau và ký sinh trùng không xác định khác. Khoảng 30% số bò biển chết ở Queensland kể từ năm 1996 được cho là do nhiễm bệnh.
Sinh sản
Trong mùa sinh sản, bò biển cái thu hút sự chú ý của một số con đực, một hoặc hai trong số đó cuối cùng sẽ giao phối với nó. Bò biển con được sinh ra sau một thời gian mang thai 12 – 14 tháng và sẽ tiếp tục bú mẹ từ khoảng 18 tháng. Bò biển dugong trưởng thành không có bất kỳ động vật săn mồi tự nhiên nào, nhưng bò biển con có thể bị cá sấu nước mặn , cá voi sát thủ và cá mập lớn ven biển ăn thịt .
Tỷ lệ sinh sản thấp này có ý nghĩa đối với việc bảo tồn chúng trên toàn thế giới và khiến chúng dễ bị suy giảm nghiêm trọng do tác động của các hoạt động của con người.
Tình trạng bảo tồn
Bò biển dugong được coi là tương đối phong phú ở vùng biển Úc, nơi chúng được bảo vệ hợp pháp bởi tất cả các quốc gia và Khối thịnh vượng chung. Quần thể của chúng không an toàn ở các nơi khác trên thế giới và chúng được Liên minh Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (IUCN) liệt kê là dễ bị tổn thương và được bảo vệ bởi Công ước về buôn bán quốc tế các loài có nguy cơ tuyệt chủng (CITES).
Lưu ý về một loài có liên quan chặt chẽ: Ngoài bò biển dugong và lợn biển manatees, một loài bò biển khác từng xuất hiện phổ biến ở phía bắc Thái Bình Dương. Bò biển Steller ( Hydrodamalis gigas ) là loài duy nhất khác trong họ Dugongidae, nhưng nó đã bị săn bắn đến tuyệt chủng bởi những thợ săn và thám hiểm vào những năm 1700. Trước đây là một trong những động vật có vú biển lớn nhất sau những con cá voi lớn, bò biển Steller sẽ không bao giờ sống lại. Loài bò biển Steller là một ví dụ về những gì có thể nếu việc săn bắn hoặc câu cá xảy ra ở mức độ nghiêm trọng.